Thứ Bảy, 25 tháng 8, 2018

BoJack Horseman: ta đã làm chi đời ta?

      Mình xem TV series không nhiều và việc xem cái gì thì rất tùy lúc. Ví dụ như mình xem Silicon Valley vì lúc ấy đang thích IT và bị Mr Robot dọa phát khiếp, The leftovers vì nhạc của bác Max Richter và BoJack Horseman là bởi opening theme quá tuyệt vời. Ai mà ngờ series hoạt hình về một con ngựa nghiện rượu sẽ có lúc khiến mình phải khóc vì thấy chính mình trong đó?
    BoJack lấy đề tài là châm biếm ngành công nghiệp giải trí mà nói cho đúng là văn hóa Hollywoo(d), nhân vật chính cùng tên với series-BoJack Horseman là một diễn viên truyền hình trung tuổi đã hết thời đang có ý định vực dậy cuộc đời mình khỏi vực thẳm nghiện ngập và scandal. Xoay quanh cuộc sống rối rắm của BJ có Mr. Peanutbutter [chó Labrador] lúc nào cũng vui vẻ, Diane Nguyen [người]-một nhà văn viết thuê hồi kí cho BJ và là vợ của Mr. Peanutbutter sau này, Todd Chavez [người]- một thanh niên ăn nhờ ở đậu BJ được vài năm, Princess Carolyn [mèo]- quản lí của BJ.
Đây là đám người lớn đang loay hoay với cuộc đời cũng như bạn vậy
    Màu sắc tươi sáng, đề tài hấp dẫn (ai mà chẳng thích hậu trường Hollywood), bạn cứ nghĩ mình đang xem một series cho người lớn chọc ngoáy vào lối sống bậy bạ của bọn này (với tư cách pháp lí là người lớn, mình xác nhận), tức là một kiểu show như The Simpsons, châm biếm những thứ to to và chung chung (không có nghĩa là TS không hay). Nhưng spoiler ahead, điều bạn không ngờ là ẩn dưới lớp vỏ rực rỡ và những câu chuyện màu mè ấy là chủ đề  mà Bob Raphael Waksberg (đạo diễn) và Lisa Hanawalt (họa sĩ) đã khéo léo đưa vào: khủng hoảng hiện sinh và chấn thương tâm lí. 

Điều hấp dẫn nhất ở BoJack chính là ở những bi kịch đời người nho nhỏ, không khó để cho khán giả liên tưởng tới chính những insecurity của mình, trên subreddit chẳng hay đùa là phải có cuộc thi xem redditor nào giống nhất với BoJack (nếu ai đó đứng nhất thì không biết là nên vui hay buồn). Vậy nên chẳng ngạc nhiên khi mình là BoJack khi phải buồn bã thừa nhận, "ta là thứ ta làm" và cái cảm giác tội lỗi khi cứ mãi làm đau những người mình quan tâm. Mình là Diane khi mình cảm thấy có lẽ mình sẽ không bao giờ biết thế nào là đủ để hạnh phúc. Mình là Princess Carolyn khi mình giả vờ mình vẫn ổn bằng cách quan tâm đến người khác. Mình là Todd những lúc mình không thể chống chọi lại việc bắt mình phải suy ngẫm về chính mình. Mình cũng còn là Mr.Peanutbutter với lối sống "nothing matters" nên dĩ nhiên là "nothing else matters" rồi.
    Giờ quay trở lại câu hỏi, BoJack đã làm chi đời anh (và cả bạn đã làm chi đời bạn) bởi thoạt nhìn, đời anh có vẻ ổn mà. Không như bạn phải mài mông làm việc, không có người yêu và chẳng ai biết đến, BoJack ăn không ngồi rồi mà vẫn giàu, bạn tình cả đống và người hâm mộ không thiếu vậy thì bi kịch của anh đến từ đâu?
Có lẽ là khi BJ gặp lại người bạn đã từng rất thân thiết, Herb Kazzaz và mong anh ta tha thứ trước khi Herb chết vì ung thư và nếu như bình thường, có lẽ đây sẽ là lúc mà nhân vật chính của chúng ta được tha thứ và cứu rỗi nhưng không [cũng giống như lúc bạn nhận ra cuộc sống đằng nào cũng sẽ làm con tim bạn tan nát] Herb giận dữ hét lên, "I won't forgive you and you would live the rest of your life with that." Và đoạn kết của ss1 là minh chứng rõ nhất cho điều này, khi BJ tuyệt vọng cần lời an ủi từ Diane rằng anh ta là người tốt và trong sâu thẳm anh ta là người tốt, Diane chỉ đơn giản nói rằng, "I don't think I believe in deep down, I kind of think all you are just the things that you do", tức là "Existence precedes essence" mà nôm na ra là "Ta là thứ ta làm". Vậy chẳng lẽ lại như mẹ của BJ nói, "You're BoJack Horseman, there's no cure for that."
Hẳn rồi, bi kịch đến từ việc chúng ta phải buồn bã chấp nhận điều này:
    Vậy có cách nào bào chữa cho BJ khi anh ta bị kết tội trở thành con người như anh ta đã là trước khi anh ta kịp có ý thức và chiêm nghiệm về những điều mình đã làm? Chà, Sartre xem ra đúng đấy, "Freedom is what we do with what is done to us." BJ có thể lựa chọn trở thành bất cứ ai mặc cho quá khứ đã xảy ra điều gì nhưng điều cốt yếu là lựa chọn đó hoàn toàn ở anh ta, cái ý nghĩa của câu "Man is condemned to be free" cũng là vì thế. Có cái quyền lựa chọn đúng thực như bị kết án, gánh lấy trách nhiệm về cuộc đời mình vốn đâu dễ dàng gì, giá đâu đó có một ông Tạo, một bà Trời hoặc một tay lập trình viên ất ơ nào đó chịu trách nhiệm cho đời ta thì hay biết mấy.
     Dĩ nhiên, đâu ai có thể sống lại đời mình và cũng đâu ai sống thay đời mình, nguyên việc chất vấn chính mình cũng đã là một nỗ lực đáng kể để thay đổi bản thân nên là mình vẫn rất thích lời thoại này của Cuddly Whisker:
và cả lời khuyên của ông lão khỉ này:

    Rõ ràng, trước khi kịp nhận thức thấu đáo thì bạn đã sống rồi, bạn hoàn toàn không có quyền lựa chọn đầu tiên nhưng điều tuyệt đẹp của việc đó là nó vẫn để lại một lựa chọn tuy khó khăn hơn nhưng lại hứa hẹn sự tự do, rằng liệu bạn có muốn cố gắng tiếp, bằng mọi cách khiến sự sống này trở nên đáng giá để bạn có thể chịu đựng những nỗi đau và tận hưởng niềm vui mà nó mang lại. Về phần mình, mình mong là sẽ đủ dũng cảm và kiên nhẫn tiếp tục cuộc hành trình này (vì cuộc sống vẫn vừa buồn và ngọt ngào hơn những gì mình nghĩ nhiều). Mình không thích uống cà phê cho lắm nhưng mùi thơm của nó thì dễ chịu nên là mình sẽ tưởng tượng đang pha một tách vậy, bác Camus nhỉ.





 




Thứ Năm, 1 tháng 2, 2018

Về tình yêu (và)bọn trẻ con

    Trời trở rét, gió bấc và mưa phùn lúc nào cũng khiến mình nhớ đến mùi cũ mốc của quần áo ấm mẹ cất trong tủ, cái lạnh trong một buổi trưa mùa đông hồi lớp hai ngồi gà gật nhìn bố mẹ vá chăn (tới giờ cái chăn hai màu đen-đỏ vẫn còn nguyên) và màu tím nhạt của hoa xoan bên nhà hàng xóm. Đó, cảm giác tạo ra kí ức và nhờ kí ức thì người ta mới là một ai đấy. Và để nắm bắt kí ức và cho nó một ý nghĩa là-một-ai-đấy thì người ta cần ý thức
    À phải, mình thì biết gì chứ và dạo này còn đang thấy ý thức là gánh nặng hơn là món quà của tiến hóa cơ mà, bởi lẽ cảm thấy quá nhiều và nhận thức quá rõ khiến người ta muốn những điều bất khả (xin mượn lời Père Tanguy khi nói về idol van Gogh). Nhưng có một điều mà mình thấy trân trọng và biết ơn và nhờ vậy có thể chịu đựng, ấy là tình yêu và khả năng cảm nhận được tình yêu. Mãi tận đến khi chị sinh cháu, mình mới thấy được cái vị ngọt ngào dìu dịu của tình yêu, một thứ tình cảm mát lành và tươi mới nhen lên khi chứng kiến một em bé ra đời. Và mỗi lần lần nhớ lại là mình lại nghĩ về bức tranh Hoa hạnh nhân này của Vincent:
Almond blossom, oil on canvas, 1890. Vincent van Gogh.
    Vincent vẽ bức này cũng dành cho cháu trai mới ra đời, kì diệu làm sao khi người ta vẫn cảm nhận được cùng một thứ tình cảm và cùng một niềm hi vọng vào sự sống như người kia dù cách cả trăm năm chỉ nhờ vào những cành hạnh nhân nở rộ trên bầu trời xanh ngắt.
    Từ khi bọn nhóc ấy có mặt, mình đâm ra ngạc nhiên nhiều: cuộc đời sao mà lại êm ái và dịu dàng đến chừng ấy khi có chúng bên cạnh. Mỗi lần nhìn khuôn mặt rạng rỡ và háo hức của bọn nhóc là mình thêm hiểu tại sao cả thế giới lại quay quanh chúng và tưởng như chỉ để đổi lấy nụ cười của chúng là mình có thể ừ với bất cứ điều gì. Mỗi điều gì xuất hiện ở lũ nhóc: một cái răng mới, một từ bật ra thêm, biết khóc dỗi hờn, muốn tự rửa tay, giả vờ dạy học và còn biết bao nhiêu những điều mới mẻ nhỏ nhặt nữa đều khiến mình ngây ngất sung sướng khi phát hiện ra chúng. Biết là mình yêu chúng đôi lúc khiến mình đau lòng, nhất là khi ích kỉ mà nghĩ rằng biết đâu chúng chẳng đáp lại được tình yêu ấy. Rồi những lúc thấy mình ngớ ngẩn mà lo lắng nghĩ rằng sau đây chúng sẽ phải học cách chấp nhận yêu cái cuộc sống vừa xấu xí lại vừa tuyệt đẹp này. Phải, mình yêu chúng biết bao và nghe chẳng biết bao giờ là đủ cái câu nói thỏ thẻ "con yêu dì". À, hóa ra người ta mụ mị đi vì tình yêu là phải rồi. Mà lại là dành cho bọn trẻ con nữa, mụ mị đến đâu cho vừa nhỉ?
 
 
 
 
 
 


Thứ Hai, 29 tháng 5, 2017

Chân trời cũ- Hồ Dzếnh

    Mình biết đến văn Hồ Dzếnh hồi tiểu học, mẹ muốn mình viết văn tốt nên mua cuốn Văn miêu tả và kể chuyện (bác Phạm Hổ chủ biên) cho mình đọc. Rồi từ đấy mà mê văn của những Tô Hoài, Trần Hoài Dương, Ngô Quân Miện, Vũ Tú Nam,... Mãi sau này mới biết, đoạn văn của bác được trích trong đó là từ truyện ngắn Ngày gặp gỡ, kể về cuộc gặp giữa người mẹ mới là một cô gái mười lăm tuổi lái đò và người cha, một thương khách người Hoa lỡ đường trong đêm. Lúc nhỏ đọc cũng chẳng ấn tượng gì nhiều rồi lớn lên có đọc lại vài lần, bao giờ cái mẩu chuyện nho nhỏ ấy cũng cho mình cái cảm giác êm ái và bình yên của một làng quê, cái cảm giác ngường ngượng đáng yêu của một cô gái đang lớn và lòng thương cảm với cái người Hoa lưu lạc kia.
    Nếu văn là người (ông cũng viết vậy) thì hẳn ông là người hết sức nhạy cảm ngay kể cả từ khi còn nhỏ: cái cách ông quan tâm đến những người phụ nữ trong đời ông, người mẹ cả đời chỉ biết coi hi sinh là công đức lớn lao nhất, người chị dâu cũng là một mảnh hồn Hoa lặng lẽ cam chịu nơi đất khách, người chị nuôi nhẫn nhục sống một kiếp người ngắn ngủi, người em gái bồng bột lạc đâu đó mà ông không còn được gặp lại. Ông hẳn cũng là một người bao dung, kiểu bao dung của người coi mọi kiếp sống đều là khổ đau: ông tiếc thương người cha mất đi mà không ai nối nghiệp, ông thương cảm hai người anh trai bất đắc chí trong thế thời loạn lạc mà bỏ qua lầm lỗi của hai người, ông nhớ quê hương thứ hai, cái quê nội chỉ biết tới qua lời kể của cha và anh cả mà quên đi cái bạc tình của người chú ruột.
    Hồ Dzếnh có nói trong một cuộc phỏng vấn, rằng ông chỉ viết khi thấy ân hận. Nhưng vì nỗi gì? Cũng có lẽ là đúng lúc khi tới bây giờ mình mới đọc Chân trời cũ, khi đã đủ hiểu cái cảm giác của ông khi viết câu này “tôi biết cha tôi quá chậm”. Và may mắn hơn ông, mình (có lẽ) không phải chịu cái nỗi ân hận của ông vì sự “chậm” này.
    Sống ngay trên đất Việt nhưng vẫn nhớ mình một nửa là người Hoa, lớn lên trong làng quê Việt nhưng sau này ông cải đạo Thiên Chúa, dĩ nhiên có lúc ông thấy chênh vênh và xa lạ. Nhưng đọc đến những dòng này thì mình tin lòng ông vẫn nặng mối tình với đất Việt: “nhưng tôi vẫn tiêng tiếc như đã bỏ qua một sự gì đẹp đẽ quá…Tôi đua đòi chạy tìm cái chân trời xa lạ, nhưng mỗi lúc dừng chân, tôi vẫn thích quay về Quê Mẹ. Ở đấy mới thực rộn và sôi lên cái gì là lòng là máu, máu và lòng không vay mượn, không chế tạo, thiết thực và đơn sơ.”
Hồ Dzếnh yêu tiếng Việt, vì nếu không yêu thì sao viết những dòng nên thơ thế này“Quê mẹ tôi ở Trung Bộ. Nhà người- tôi không làm thơ đâu- ở bên kia một dòng sông nhỏ, êm kín với hai bờ lau xanh.” và với đất Việt, “vì tôi yêu vô cùng cái dải đất cần lao này, cái dải đất thoát được ra ngoài sự lọc lừa, phản trắc, cái dải đất chỉ bị bạc đãi mà không bạc đãi ai bao giờ.” Sự nặng lòng của ông làm mình nhớ đến Tuổi thơ im lặng của Duy Khán và sau này được thấy lại trong Con chim khổng tước còn hót vang ngày mở đất của Phan An.
Đấy là những cuốn khi đọc mà cứ thấy thương cảm một lớp người đã biến mất từ lâu, thấy yêu một miền quê xa xăm chưa từng tới và thấy nhớ một thời đã qua gần thế kỉ.

Thứ Bảy, 27 tháng 5, 2017

Không đầu chẳng cuối

    Đấy là lúc có những niềm vui nho nhỏ: mùi lạnh và mốc của gió đông bắc (vào cuối tháng Năm), cảm giác xúc động trước một bài hát(à, hóa ra vẫn còn có thể) và khoảng thời gian hiếm hoi được ở trong một căn phòng rộng chỉ có một mình. Những lúc ấy, thấy mình được an ủi lắm, cứ như là tan ngay vào không khí được vì an bình quá, vì nhẹ nhõm quá.
    Nay đang đọc dở A brief history of humankind của Yuval Harari, có chỗ gật gù, có chỗ phải nhíu mày nhưng tóm lại là để làm một con người tử tế thì nên đọc cuốn này thật. Dù sao giờ mình đã có thể chính thức đổ lỗi cho lịch sử tiến hóa đã để lại nỗi lo âu về một tương lai bất định hằn sâu trong tiềm thức con người.
    Vừa đọc lại Hồ Dzếnh và đã nhớ ra tại sao mình thích lối viết của ông. Chân trời cũ làm mình thấy lại không khí trong Tuổi thơ im lặng: những nỗi buồn và tiếc thương cho người thân vì một cuộc đời cơ cực và hi sinh, từng câu chuyện đều là của riêng ông nhưng lại khiến mình thấy đồng cảm hết sức. Có một câu trong Con ngựa trắng của ba tôi mà mình rất thích, "tôi biết ba tôi quá chậm", nghe sao buồn và thương quá. Giống hệt như khi mình bất ngờ nhận ra chữ viết tay của bố rất đẹp hay những dự định đặt tên của mẹ và thấy thật may là không bị quá chậm như ông.

    À, vẫn đang loay hoay định viết về Manchester by the sea hoặc Ghost in the shell. Motoko có nói đó, "We weep for the blood of a bird, but not for the blood of a fish. Blessed are those with a voice. If the dolls could speak, no doubt they'd scream, "I didn't want to become human." Thật, ông chú Yuval bi quan là có lí cả.

   
   
   

Thứ Bảy, 29 tháng 4, 2017

Về Charles Valentin Alkan (dịch)

   [ Bản dịch cuộc nói chuyện của nghệ sĩ piano Jack Gibbons về Charles-Valentin Alkan trên BBC Radio 3 năm 2002. ]
    Nghệ sĩ piano người Mĩ Oscar Levant đã từng nói về George Gershwin rằng có quá nhiều điều bí ẩn và những câu chuyện thổi phồng về ông "ngay cả những chuyện bịa về ông cũng là bịa đặt quá mức"! Có thể với Alkan cũng như vậy, nhà soạn nhạc Do Thái người Pháp này là hàng xóm của Chopin ở Paris những năm 1840, ông phát triển sự nghiệp với tư cách là một nghệ sĩ piano cùng với Chopin và Liszt đầu thế kỉ 19. Buồn thay, cho dù âm nhạc của Alkan có những nét độc đáo lạ thường, sự nghiệp của ông lại không thể rạng rỡ và cuối cùng các tác phẩm của ông bị trôi vào quên lãng ngay cả khi ông vẫn sống.
Chân dung Alkan bằng màu pastel, khoảng 1830

   Sau khi chết, âm nhạc của ông vẫn được cả Debussy, Ravel ngưỡng mộ và ngâm cứu, được cả những nghệ sĩ như Busoni và Rachmaninov tôn vinh. Nhưng phải tới tận khi những bản LP đầu tiên xuất hiện vào những năm 60 (đặc biệt là các bản thu âm của Raymond Lewenthal và Ronald Smith) thì công chúng mới có cơ hội thực sự biết tới âm nhạc của hình tượng âm nhạc kì lạ và độc đáo nhất này.
    Khi một nhà soạn nhạc bị thờ ơ trong nhiều năm, như trong trường hợp của Charles-Valentin Alkan, việc thu hút sự quan tâm của công chúng là không hề dễ dàng. Không may nữa là nếu để âm nhạc tự cất lên tiếng nói thì cũng vẫn chưa đủ. Cần phải có thứ gì đó kịch tích, nhất là trong thời đại truyền thông giật gân của chúng ta. Vì thế, những năm 60, khi âm nhạc của Alkan bắt đầu sống lại, những chi tiết về cuộc đời và âm nhạc của ông thường xuyên bị phóng đại và thu hút sự chú ý, những huyền thoại lại tiếp tục được dựng lên trên nền những câu chuyện cũ.
    Có rất nhiểu sự kiện để tô vẽ thêm những chi tiết màu mè về cuộc đời của Alkan:
- Alkan nổi tiếng là bị ám ảnh bởi các tác phẩm của mình (ông viết một bộ 12 study trong đó có 3 chương cho concerto và 4 chương cho giao hưởng và đã từng bày tỏ ham muốn- dù chưa hoàn thành- đưa toàn bộ Kinh thánh vào âm nhạc)
- Âm nhạc của Alkan, được cho là có độ khó không tưởng.
- Tác phẩm của ông còn có một bản Funeral March cho một con vẹt chết.
- Vài người cùng thời với Alkan nói rằng ông cực kì ẩn dật.
- Nhà soạn nhạc có một người con trai ngoài giá thú "những lúc ông ít ẩn dật hơn"! [Lời của Ronald Smith]
- Con trai của Alkan có hai con vượn và hàng trăm con vẹt mào trong nhà của mình ở Paris.
- Những câu chuyện thêm mắm dặm muối về cái chết của Alkan cũng không hẳn là sai vì cái chết của ông cũng kì lại như cuộc đời ông vậy!
    Khi không còn những bí ẩn về Alkan có thể người ta thấy như chẳng còn gì thú vị nữa, như trong câu chuyện kịch tính về cái chết bất thường của ông, bị giá sách đổ đè lên người khi đang với tay lấy bản sao của cuốn Talmud. Câu chuyện này đã trở thành một phần nổi tiếng về cuộc đời Alkan. Đáng buồn là câu chuyện này không đúng. Sự thật còn thú vị hơn...và bi thảm hơn. Cái chết của Alkan năm 1888 có vẻ là minh họa rõ ràng cho bi kịch của cuộc đời ông: sống một mình, có vẻ ông bị ngã và mắc kẹt trong đống đồ rơi xung quanh trong hơn 24 giờ trước khi có người quen ghé thăm kéo được ông ra khỏi đó. Ông chết trong nhà mình chỉ vài giờ sau khi được cứu thoát. Tuy thế câu chuyện bịa về việc ông bị giá sách đè lên người đã làm bí ẩn thêm về nhà soạn nhạc lập dị này.
   Alkan, ảnh chụp từ phía sau vì những lí do mê tín (một trong hai bức ảnh duy nhất được biết đến của nhà soạn nhạc)
    Nói ai đó "lâp dị" tức là khiến người ta bị coi là khác người; do đó Alkan bắt đầu bị coi như một người kì lạ và thậm chí là lạnh lùng, với những bản nhạc cho piano khó không tưởng, tượng trưng cho chính tính cách của ông và ngay cả cái chết của ông cũng kì cục chẳng kém. Thực tế là, Alkan là một người thông minh, đầy sức sống, hài hước và ấm áp (tất cả những tính cách này để lại dấu ấn mạnh mẽ trong âm nhạc ông) mà tội duy nhất mà ông mắc phải có lẽ là có trí tưởng tượng sống động và đôi khi có hơi lập dị (chẳng nhằm nhò gì nếu so với những nghệ sĩ "đẳng cấp cao" khác!) bắt nguồn chủ yếu từ bản chất quá đỗi nhạy cảm của ông.
    Những bản nhạc dành cho piano "khó ngoài sức tưởng tượng" của Alkan, thường những người chơi mô tả là thách thức khủng khiếp và gần như không thể vươn tới về mặt kĩ thuật: than ôi đây chính là phần huyền thoại về Alkan bị phóng đại quá mức đến nỗi có thể bây giờ đây được coi là chướng ngại lớn nhất khiến âm nhạc của ông khó được phổ cập. Ban đầu, đây là một cách hay để thu hút công chúng khi Alkan được những người như Raymond Lewenthal và Ronald Smith bảo chứng cho âm nhạc của mình khi chơi được mức độ khó như vậy. Rõ ràng đó là cách để thu hút sự chú ý tới âm nhạc của một con người có tính cách như vậy. Đúng là cách hay để giúp âm nhạc của ông được chú ý và nó đã tỏ ra là hiệu quả. Nhưng điều đó lại gây ra sự e dè cho những người chơi nhạc! Và Alkan cần người chơi nhạc của ông! Âm nhạc của ông càng được chơi nhiều thì các nhiều có nhiều những phiên bản trình diễn âm nhạc của ông và như thế sẽ càng tốt hơn cho nhà soạn nhạc. Nhưng đừng nhầm, âm nhạc của Alkan trong những bản yêu cầu độ khó cao hơn đúng là không hề dễ dàng nhưng sự thực là hầu hết các tác phẩm, đôi khi rất tốn sức- đặc biệt là khi xét đến sức bền, vẫn nằm trong tầm tay của bất nghệ sĩ piano thành thạo nào, vậy mà lại không bao giờ được chơi nhiều như các bản study của Chopin hay concerto của Rachmaninov. Đôi khi người ta nói những điều hoàn toàn không đúng như thế này, rằng cần phải có bàn tay lớn mới chơi được Alkan: chỉ trừ một hai hai ngoại lệ, những hợp âm của Alkan hầu hết chỉ trải dài trong một quãng tám mà thôi. Vì thế còn rất nhiều những tác phẩm khác dành cho những người chơi không chuyên. Nhiều bản miniature thú vị của Alkan nằm trong tầm của những người chơi nghiệp dư và rất đáng được chơi (vì mục đích này mà nghệ sĩ piano Ronald Smith đã chuẩn bị để xuất bản một tuyển tập thú vị gồm những bản nhạc "dễ" của Alkan, được nhà xuất bản của Alkan ấn hành, Billaudot of Paris).
    Cũng như những điều bí ẩn khác, sự thật trong trường hợp của Alkan thường thú vị hơn so với tưởng tượng. Những câu chuyện bị thổi phồng về Alkan để thu hút công chúng giờ lại là vật cản để tìm hiểu sâu hơn về bộ óc xuất chúng này. Giờ là lúc ta phải tháo gỡ những điều bí ẩn để mọi người biết tới con người thực sự đằng sau thứ âm nhạc đáng chú ý này.
    Vậy Alkan thực sự là ai? Alkan sinh ra ở Paris năm 1813. Tên thật của ông là Charles-Valentin Morhange nhưng lại lấy tên của cha làm họ cho mình. Alkan đến từ một gia đình có tài năng trời phú về âm nhạc và ngay từ khi rất nhỏ ông đã cho thấy tài năng sớm nở rộ của mình, vào học Trường nhạc Paris khi mới chỉ 6 tuổi, lần đầu trình diễn năm 7 tuổi (với tư cách người chơi violin, không phải piano!) và tốt nghiệp hạng ưu ở tuổi 13. Trước 20 tuổi, ông đã sáng tác và trình diễn những bản nhạc cho thấy trí tưởng tượng độc đáo và kĩ năng chơi đàn ngoạn mục. Trước những năm 1830, Alkan trở thành một trong những nghệ sĩ piano bậc thầy của Paris. Cần phải nhớ rằng Paris ở thời điểm đó, những năm đầu thế kỉ 19 là trung tâm văn hóa đối với nhiều nghệ sĩ châu Âu. Cùng những người ngoại quốc như Chopin, Liszt và Hiller, Alkan đã sớm làm quen, cùng nhau chơi trong các buổi hòa nhạc và trở thành bạn bè, thậm chí là hàng xóm của Chopin. Alkan tôn thờ tính cách và âm nhạc của Chopin và chính cái chết sớm của Chopin ở tuổi 39 để lại khoảng trống lớn trong cuộc đời Alkan. Không may cho Alkan, sự nghiệp của ông phải chịu nhiều bất lợi mà ông không thể kiểm soát được. Là một tài năng "quê nhà" ở Paris, ông chẳng gây được sự mê hoặc như những người ngoại quốc, giống như Chopin của Ba Lan và Liszt của Hungari. Thêm vào đó, Alkan lại còn là người Do Thái, tại thời điểm mà làn sóng bài Do Thái đang dâng lên ở Pháp. Có thể sự nghiệp của ông sẽ tiến xa hơn nếu ông tới những nước khác nhưng ông thích không khí âm nhạc ở Paris và lưỡng lự việc phải chuyển đi. Có lẽ một tính cách tích cực và hướng ngoại sẽ vượt qua được chuyện này nhưng tính nhạy cảm và nội tâm quá sức của Alkan khiến ông không thể vượt qua những chướng ngại ấy. Đáng buồn cho chúng ta, sự nghiệp của Alkan không thể thăng hoa khi ông còn sống lại chính là nguyên nhân chủ yếu khiến âm nhạc của ông bị thờ ơ sau khi chết, ngay cả khi với sự ủng hộ và ngưỡng một từ những người như Debussy, Ravel và Rachmaninov.
    Debussy đến với âm nhạc của Alkan khi còn là sinh viên ở Trường nhạc Paris những năm 1870 và cực kì say mê các bản minature cho piano của ông. Như Chopin, Alkan sáng tác chủ yếu dành riêng cho piano. Trong số 75 tác phẩm là bản "12 studies in all the minor key", Opus 39, một tác phẩm cần tới 2 giờ để chơi và gồm ít nhất 3 chương cho concerto và 4 chương cho giao hưởng, cả hai đều là dành riêng cho piano. Nhưng đối ngược lại với tác phẩm này, Alkan cũng viết rất nhiều những bản minature thú vị khác mô tả những tâm trạng khác nhau; gây ấn tượng sâu sắc cho Debussy. Lắng nghe những bản nhạc này, ta dễ dàng hiểu được điều gì đã hấp dẫn Debussy, đặc biệt là trong tác phẩm "Les Soupirs" từ tập tác phẩm 48 Esquisses của Alkan, với những hòa âm thú vị và trạng thái cảm xúc mà nó mô tả qua âm nhạc (trong bản này là "thở dài").
    Không bàn đến những khó khăn mà Alkan đối mặt trong sự nghiệp, có một sự kiện riêng tư hơn rõ ràng đã để lại một vết thương tình cảm lớn cho nhà soạn nhạc trẻ tuổi. Ngày 8 tháng 2 năm1839, một đứa trẻ ra đời dưới cái họ Delaborde và sau này trở thành một trong những người chơi piano thành công nhất của Pháp. Mẹ của Delaborde là một học sinh giàu có của Alkan. Cha của Delaborde chính là Alkan. Tuy là trong một thành phố mà scandal không phải là gì mới mẻ nhưng sự kiện này vẫn ảnh hưởng nghiêm trọng lên tên tuổi của Alkan. Trong 6 năm tiếp theo, cái tên Alkan biến mất khỏi mọi bài báo về âm nhạc và thay vì đến với sân khấu, Alkan lại rút lui vào việc sáng tác. Quan hệ cha con của hai người không bao giờ được thể hiện trước công chúng ở Paris và luôn trong trạng thái miễn cưỡng. Nhưng Delaborde luôn luôn được chào đón ở nhà của Alkan và sau khi ông chết, Delaborde tiếp tục vinh danh âm nhạc của cha mình.
    Khi Alkan không trình diễn hay vật lộn với sự xáo trộn của cuộc sống riêng tư, nguồn thu nhập chính của ông, cũng như Chopin là từ việc dạy học. Trong một khoảng thời gian, ông là giáo sư ở Trường nhạc Paris. Alkan dạy rất nghiêm chỉnh và mong được trở thành trưởng khoa piano ở học viện nổi tiếng này. Ông là người chơi piano Paris đủ tư cách nhất cho vị trí này khi nó bị trống vào năm 1848. Nhưng do những lục đục chính trị, tình trạng bài Do Thái và có thể là do tính nhút nhát và không giỏi giao tiếp mà Alkan bị bỏ qua và người ta chọn học sinh của chính Alkan, Marmontel: một giảng viên xướng âm làng nhàng còn chẳng biết chơi piano cho ra hồn nhưng sau này chính ông lại giảng dạy thế hệ nhạc sĩ tiếp theo của Pháp, trong đó có Bizet và Debussy và năm 1858 được trao tặng Bắc đẩu bội tinh, danh hiệu cao quý nhất của Pháp. Đứng trước việc này, Alkan lại càng trở nên buồn chán, rút lui về dạy tư và tự an ủi vết thương lòng.
    Alkan là một người dễ gần, hài hước và thích tranh luận với các bạn bè thân thiết dù ông thường hay nhút nhát và hướng nội quá mức. Khi sự nghiệp không như mong đợi, cùng với những xáo trộn trong cuộc sống riêng, ông lại càng thu mình hơn và sự hướng nội này cuối cùng biến thành những cơn trầm cảm thường xuyên khi càng ngày ông càng thích ở một mình. Tính cách của ông cũng khiến ông dễ bị nhấm chìm trong những nỗi buồn thảm của một cuộc đời không như ý. Có lúc, ông có thể  trút nỗi niềm qua âm nhạc, có lúc thì lại không. Như những lời ông viết cho Hiller năm 1861:
    "Càng ngày tôi càng thấy chán ghét xã hội và phụ nữ...chẳng có việc gì đáng giá hay hữu ích để cho tôi làm...không một ai xứng đáng để tôi dồn trí cả. Tình trạng này khiến tôi thấy buồn thảm và khốn khổ khủng khiếp. Ngay cả việc viết nhạc cũng đã mất đi sự hấp dẫn rồi vì tôi chẳng còn thấy mục đích của nó nữa."
    Có lẽ đó chính là lúc Alkan chuyển đam mê của mình ra ngoài âm nhạc, ông ngâm cứu thần học. Ông rất say mê Kinh thánh, bao gồm cả Tân Ước mà đạo Do Thái của ông sẽ không bao giờ cho phép. Âm nhạc của ông mang nhiều âm hưởng tôn giáo và có lần ông đã từng nói nếu được sống lại một lần nữa, ông sẽ đưa toàn bộ Kinh thánh vào âm nhạc! Dù lòng nhiệt thành của ông với dự án khó nhằn này chưa bao giờ thể hiện rõ, ông đã dịch xong toàn bộ Kinh thánh từ tiếng Hebrew sang tiếng Pháp! Nhiều tác phẩm với chủ đề tôn giáo của Alkan được viết cho pedal piano, một loại piano có pedal giống như organ để chân người chơi cũng được bận rộn như tay vậy! Buồn thay là nhạc cụ này đã bị rơi vào quên lãng và một phần quan trọng trong sự nghiệp âm nhạc của Alkan không còn được cất tiếng nữa (một số tác phẩm cho pedal piano đã được trình diễn bằng organ nhưng nhạc cụ này không phù hợp với những bản nhạc như vậy, do cần phải có âm thanh của piano như chủ ý ban đầu của nhà soạn nhạc).
    Hiểu biết rộng rãi và thâm sâu trên rất nhiều lĩnh vực, Alkan cũng có một khiếu hài hước rất đáng kể (ông chỉ có thể chia sẻ điều này với hàng xóm là Chopin). Khả năng khéo léo chuyển tải sự hài hước vào âm nhạc của Alkan là rất độc đáo. Một trong những tác phẩm đáng chú ý nhất của ông là bàn "Funeral March on the Death of a Parrot" (thường hay bị nhầm thành "Funeral March for a Dead Parrot," một trích đoạn nổi tiếng trong vở hài kịch Monty Python). Niềm tưởng niệm riêng của Alkan với con vẹt là một bản nhạc hóm hỉnh, tài tình đồng thời lại có phần ngớ ngẩn một cách duyên dáng, thực ra là một trò đùa về Rossini, người vô cùng thích vẹt. Tác phẩm được viết cho nhiều giọng và sự kết hợp kì lạ của bộ hơi và một đoạn lời lặp đi lặp lại duy nhất bằng tiếng Pháp "Ai là Polly xinh đẹp nào?" ("Who's a pretty Polly?")! Một tác phẩm hóm hỉnh khác nữa tuy rằng cũng có nhiều khoảnh khắc bi ai , là "Le Festin d'Esope" (hay "Bữa tiệc của Aesop"), một chuỗi các khúc biến tấu dành cho piano mà mỗi khúc lại mô tả một con vật hay cảnh truyện trong ngụ ngôn của Aesop. Và dĩ nhiên, tiếng cười và sự bi ai là hai cảm xúc rất con người và không có gì ngạc nhiên rằng sự bi ai đau đớn là đặc trưng dễ nhận ra nhất trong âm nhạc của Alkan. Trong bản prelude cho piano "Bài hát của người phụ nữ điên trên bờ biển" ("The Song Of The Mad Woman On The Sea Shore"), sự tuyệt vọng tột cùng của Alkan, có lẽ sinh ra từ chính trải nghiệm của ông, được thể hiện hết sức mãnh liệt.
    Ngoài trí tưởng tượng phong phú sống động, đời sống xã hội của ông rất yên ả và không có nhiều biến cố. Nhưng có lúc việc dạy học và sáng tác thường ngày (cả dịch Kinh thánh nữa) bị xáo trộn bởi đôi khi ông đột ngột quay trở lại trình diễn. Thực tế, vào giai đoạn sau của cuộc đời, khi nhà soạn nhạc khoảng 60 tuổi, ông trở thành một người chơi độc tấu thường niên ở Paris. Các chương trình của ông cho thấy sự quan tâm với dòng nhạc thánh khi ông trình diễn rất điêu luyện các tác phẩm dành cho keyboard ở mọi giai đoạn, từ Couperin, Rameau và J.S.Bach cho tới những người đương đại với ông, Schumann, Mendelssohn, Saints-Saens và dĩ nhiên là cả người bạn thân Chopin. Theo những người đương thời, lối chơi của Alkan nổi bật với những đoạn khoan thai và nhịp chắc chắn. Nhà soạn nhạc Vincent d'Indy sau khi nghe ông chơi bản Piano Sonata Op.110 của Beethoven năm 1870 đã hết lời ca ngợi  Alkan:
    "Tôi không thể tả được điều gì đã diễn ra với chất thơ của Beethoven nữa- hơn thế, những khúc Arioso và Fuge mà giai điệu vốn dĩ là về sự huyền bí của cái chết giờ lại tỏa ra thứ ánh sáng đầy lộng lẫy, tôi chưa bao giờ thấy những cảm xúc mạnh mẽ như thế này bao giờ. Màn trình diễn này còn xúc động và duyên dáng hơn nhiều so với của Liszt...".
    Một học sinh của Liszt sau khi nghe Alkan chơi cho tới lúc ông qua đời, đã mô tả màn trình diễn của Alkan vẫn hừng hực sức trẻ cho dù ông đã già và ốm yếu hơn mình nhiều.
    Những năm cuối đời Alkan rất cô độc và buồn bã. Ông không kết hôn và sự đơn độc khiến ông càng trở nên buồn và tuyệt vọng hơn. Ông chết một mình ở tuổi 74 và đã sống thọ hơn người bạn, người hàng xóng Chopin gần 40 năm.
   Nghệ sĩ piano Raymond Lewenthal viết vào những năm 60 rằng: "Alkan có vẻ có điều gì đó đầy say mê và hào hứng muốn nói với những con người ở thời đại chúng ta. Thính giả, cả những người sành nghe và ít nghe đều đáp lại lời của ông." Suốt những năm tôi chơi Alkan từ lần đầu tiên trình diễn bản "Concerto for solo piano" hồi năm 1978 tới 18 năm sau, khi lần đầu tiên tôi chơi toàn bộ bản "Studies in all Minor Keys, Opus 39" của ông ở Oxford, Anh và tại Sảnh Nữ hoàng Elizabeth của London, tôi vẫn luôn thấy choáng ngợp trước niềm đam mê mãnh liệt ở trong âm nhạc của Alkan. Có chăng là bởi vì, đằng sau trình độ bậc thầy và khi những điều bí ẩn được hé lộ, những gì còn lại chính là một giọng nói thành thật, thẳng thắn và giản dị, một giọng nói xuất phát từ trái tim của âm nhạc mà những người nghe có thể đáp lời lại ngay lập tức. Nói đến đây,  có lẽ những gì khiến âm nhạc của Alkan hấp dẫn người nghe không phải là những bản piano tuyệt tác, dù cho đúng là chúng rất thú vị, cũng không phải là sự khéo léo trong cấu trúc bản nhạc, dù cho đúng là chúng rất ấn tượng. Không, điều khiến người nghe bị lôi cuốn chính là niềm đam mê vô bờ bến của Alkan với âm nhạc và sự mạnh mẽ trong cá tính âm nhạc của ông.

Yeah, dịch bài này sau khi nghe toàn bộ "12 Etudes in all the Minor Keys, opus 39" do Jack Gibbons chơi (cảm ơn internet, cảm ơn rutracker) vì chưa bao giờ mình thấy thích một nhà soạn nhạc cổ điển nào như thế này, mỗi lần nghe đều thấy may mắn hết sức khi được gặp gỡ âm nhạc của Alkan. Bác Rachmaninov nói rồi đấy, "Âm nhạc là đủ cho một đời người nhưng một đời người không đủ cho âm nhạc", đúng thật là đúng mà :)