[ Bản dịch
cuộc nói chuyện của nghệ sĩ piano Jack Gibbons về Charles-Valentin Alkan trên BBC Radio 3 năm 2002. ]
Nghệ sĩ piano người Mĩ Oscar Levant đã từng nói về George Gershwin rằng có quá nhiều điều bí ẩn và những câu chuyện thổi phồng về ông "ngay cả những chuyện bịa về ông cũng là bịa đặt quá mức"! Có thể với Alkan cũng như vậy, nhà soạn nhạc Do Thái người Pháp này là hàng xóm của Chopin ở Paris những năm 1840, ông phát triển sự nghiệp với tư cách là một nghệ sĩ piano cùng với Chopin và Liszt đầu thế kỉ 19. Buồn thay, cho dù âm nhạc của Alkan có những nét độc đáo lạ thường, sự nghiệp của ông lại không thể rạng rỡ và cuối cùng các tác phẩm của ông bị trôi vào quên lãng ngay cả khi ông vẫn sống.
Chân dung Alkan bằng màu pastel, khoảng 1830
Sau khi chết, âm nhạc của ông vẫn được cả Debussy, Ravel ngưỡng mộ và ngâm cứu, được cả những nghệ sĩ như Busoni và Rachmaninov tôn vinh. Nhưng phải tới tận khi những bản LP đầu tiên xuất hiện vào những năm 60 (đặc biệt là các bản thu âm của Raymond Lewenthal và Ronald Smith) thì công chúng mới có cơ hội thực sự biết tới âm nhạc của hình tượng âm nhạc kì lạ và độc đáo nhất này.
Khi một nhà soạn nhạc bị thờ ơ trong nhiều năm, như trong trường hợp của Charles-Valentin Alkan, việc thu hút sự quan tâm của công chúng là không hề dễ dàng. Không may nữa là nếu để âm nhạc tự cất lên tiếng nói thì cũng vẫn chưa đủ. Cần phải có thứ gì đó kịch tích, nhất là trong thời đại truyền thông giật gân của chúng ta. Vì thế, những năm 60, khi âm nhạc của Alkan bắt đầu sống lại, những chi tiết về cuộc đời và âm nhạc của ông thường xuyên bị phóng đại và thu hút sự chú ý, những huyền thoại lại tiếp tục được dựng lên trên nền những câu chuyện cũ.
Có rất nhiểu sự kiện để tô vẽ thêm những chi tiết màu mè về cuộc đời của Alkan:
- Alkan nổi tiếng là bị ám ảnh bởi các tác phẩm của mình (ông viết một bộ 12 study trong đó có 3 chương cho concerto và 4 chương cho giao hưởng và đã từng bày tỏ ham muốn- dù chưa hoàn thành- đưa toàn bộ Kinh thánh vào âm nhạc)
- Âm nhạc của Alkan, được cho là có độ khó không tưởng.
- Tác phẩm của ông còn có một bản Funeral March cho một con vẹt chết.
- Vài người cùng thời với Alkan nói rằng ông cực kì ẩn dật.
- Nhà soạn nhạc có một người con trai ngoài giá thú "những lúc ông ít ẩn dật hơn"! [Lời của Ronald Smith]
- Con trai của Alkan có hai con vượn và hàng trăm con vẹt mào trong nhà của mình ở Paris.
- Những câu chuyện thêm mắm dặm muối về cái chết của Alkan cũng không hẳn là sai vì cái chết của ông cũng kì lại như cuộc đời ông vậy!
Khi không còn những bí ẩn về Alkan có thể người ta thấy như chẳng còn gì thú vị nữa, như trong câu chuyện kịch tính về cái chết bất thường của ông, bị giá sách đổ đè lên người khi đang với tay lấy bản sao của cuốn Talmud. Câu chuyện này đã trở thành một phần nổi tiếng về cuộc đời Alkan. Đáng buồn là câu chuyện này không đúng. Sự thật còn thú vị hơn...và bi thảm hơn. Cái chết của Alkan năm 1888 có vẻ là minh họa rõ ràng cho bi kịch của cuộc đời ông: sống một mình, có vẻ ông bị ngã và mắc kẹt trong đống đồ rơi xung quanh trong hơn 24 giờ trước khi có người quen ghé thăm kéo được ông ra khỏi đó. Ông chết trong nhà mình chỉ vài giờ sau khi được cứu thoát. Tuy thế câu chuyện bịa về việc ông bị giá sách đè lên người đã làm bí ẩn thêm về nhà soạn nhạc lập dị này.
Alkan, ảnh chụp từ phía sau vì những lí do mê tín (một trong hai bức ảnh duy nhất được biết đến của nhà soạn nhạc)
Nói ai đó "lâp dị" tức là khiến người ta bị coi là khác người; do đó Alkan bắt đầu bị coi như một người kì lạ và thậm chí là lạnh lùng, với những bản nhạc cho piano khó không tưởng, tượng trưng cho chính tính cách của ông và ngay cả cái chết của ông cũng kì cục chẳng kém. Thực tế là, Alkan là một người thông minh, đầy sức sống, hài hước và ấm áp (tất cả những tính cách này để lại dấu ấn mạnh mẽ trong âm nhạc ông) mà tội duy nhất mà ông mắc phải có lẽ là có trí tưởng tượng sống động và đôi khi có hơi lập dị (chẳng nhằm nhò gì nếu so với những nghệ sĩ "đẳng cấp cao" khác!) bắt nguồn chủ yếu từ bản chất quá đỗi nhạy cảm của ông.
Những bản nhạc dành cho piano "khó ngoài sức tưởng tượng" của Alkan, thường những người chơi mô tả là thách thức khủng khiếp và gần như không thể vươn tới về mặt kĩ thuật: than ôi đây chính là phần huyền thoại về Alkan bị phóng đại quá mức đến nỗi có thể bây giờ đây được coi là chướng ngại lớn nhất khiến âm nhạc của ông khó được phổ cập. Ban đầu, đây là một cách hay để thu hút công chúng khi Alkan được những người như Raymond Lewenthal và Ronald Smith bảo chứng cho âm nhạc của mình khi chơi được mức độ khó như vậy. Rõ ràng đó là cách để thu hút sự chú ý tới âm nhạc của một con người có tính cách như vậy. Đúng là cách hay để giúp âm nhạc của ông được chú ý và nó đã tỏ ra là hiệu quả. Nhưng điều đó lại gây ra sự e dè cho những người chơi nhạc! Và Alkan cần người chơi nhạc của ông! Âm nhạc của ông càng được chơi nhiều thì các nhiều có nhiều những phiên bản trình diễn âm nhạc của ông và như thế sẽ càng tốt hơn cho nhà soạn nhạc. Nhưng đừng nhầm, âm nhạc của Alkan trong những bản yêu cầu độ khó cao hơn đúng là không hề dễ dàng nhưng sự thực là hầu hết các tác phẩm, đôi khi rất tốn sức- đặc biệt là khi xét đến sức bền, vẫn nằm trong tầm tay của bất nghệ sĩ piano thành thạo nào, vậy mà lại không bao giờ được chơi nhiều như các bản study của Chopin hay concerto của Rachmaninov. Đôi khi người ta nói những điều hoàn toàn không đúng như thế này, rằng cần phải có bàn tay lớn mới chơi được Alkan: chỉ trừ một hai hai ngoại lệ, những hợp âm của Alkan hầu hết chỉ trải dài trong một quãng tám mà thôi. Vì thế còn rất nhiều những tác phẩm khác dành cho những người chơi không chuyên. Nhiều bản miniature thú vị của Alkan nằm trong tầm của những người chơi nghiệp dư và rất đáng được chơi (vì mục đích này mà nghệ sĩ piano Ronald Smith đã chuẩn bị để xuất bản một tuyển tập thú vị gồm những bản nhạc "dễ" của Alkan, được nhà xuất bản của Alkan ấn hành, Billaudot of Paris).
Cũng như những điều bí ẩn khác, sự thật trong trường hợp của Alkan thường thú vị hơn so với tưởng tượng. Những câu chuyện bị thổi phồng về Alkan để thu hút công chúng giờ lại là vật cản để tìm hiểu sâu hơn về bộ óc xuất chúng này. Giờ là lúc ta phải tháo gỡ những điều bí ẩn để mọi người biết tới con người thực sự đằng sau thứ âm nhạc đáng chú ý này.
Vậy Alkan thực sự là ai? Alkan sinh ra ở Paris năm 1813. Tên thật của ông là Charles-Valentin Morhange nhưng lại lấy tên của cha làm họ cho mình. Alkan đến từ một gia đình có tài năng trời phú về âm nhạc và ngay từ khi rất nhỏ ông đã cho thấy tài năng sớm nở rộ của mình, vào học Trường nhạc Paris khi mới chỉ 6 tuổi, lần đầu trình diễn năm 7 tuổi (với tư cách người chơi violin, không phải piano!) và tốt nghiệp hạng ưu ở tuổi 13. Trước 20 tuổi, ông đã sáng tác và trình diễn những bản nhạc cho thấy trí tưởng tượng độc đáo và kĩ năng chơi đàn ngoạn mục. Trước những năm 1830, Alkan trở thành một trong những nghệ sĩ piano bậc thầy của Paris. Cần phải nhớ rằng Paris ở thời điểm đó, những năm đầu thế kỉ 19 là trung tâm văn hóa đối với nhiều nghệ sĩ châu Âu. Cùng những người ngoại quốc như Chopin, Liszt và Hiller, Alkan đã sớm làm quen, cùng nhau chơi trong các buổi hòa nhạc và trở thành bạn bè, thậm chí là hàng xóm của Chopin. Alkan tôn thờ tính cách và âm nhạc của Chopin và chính cái chết sớm của Chopin ở tuổi 39 để lại khoảng trống lớn trong cuộc đời Alkan. Không may cho Alkan, sự nghiệp của ông phải chịu nhiều bất lợi mà ông không thể kiểm soát được. Là một tài năng "quê nhà" ở Paris, ông chẳng gây được sự mê hoặc như những người ngoại quốc, giống như Chopin của Ba Lan và Liszt của Hungari. Thêm vào đó, Alkan lại còn là người Do Thái, tại thời điểm mà làn sóng bài Do Thái đang dâng lên ở Pháp. Có thể sự nghiệp của ông sẽ tiến xa hơn nếu ông tới những nước khác nhưng ông thích không khí âm nhạc ở Paris và lưỡng lự việc phải chuyển đi. Có lẽ một tính cách tích cực và hướng ngoại sẽ vượt qua được chuyện này nhưng tính nhạy cảm và nội tâm quá sức của Alkan khiến ông không thể vượt qua những chướng ngại ấy. Đáng buồn cho chúng ta, sự nghiệp của Alkan không thể thăng hoa khi ông còn sống lại chính là nguyên nhân chủ yếu khiến âm nhạc của ông bị thờ ơ sau khi chết, ngay cả khi với sự ủng hộ và ngưỡng một từ những người như Debussy, Ravel và Rachmaninov.
Debussy đến với âm nhạc của Alkan khi còn là sinh viên ở Trường nhạc Paris những năm 1870 và cực kì say mê các bản minature cho piano của ông. Như Chopin, Alkan sáng tác chủ yếu dành riêng cho piano. Trong số 75 tác phẩm là bản "12 studies in all the minor key", Opus 39, một tác phẩm cần tới 2 giờ để chơi và gồm ít nhất 3 chương cho concerto và 4 chương cho giao hưởng, cả hai đều là dành riêng cho piano. Nhưng đối ngược lại với tác phẩm này, Alkan cũng viết rất nhiều những bản minature thú vị khác mô tả những tâm trạng khác nhau; gây ấn tượng sâu sắc cho Debussy. Lắng nghe những bản nhạc này, ta dễ dàng hiểu được điều gì đã hấp dẫn Debussy, đặc biệt là trong tác phẩm "Les Soupirs" từ tập tác phẩm 48 Esquisses của Alkan, với những hòa âm thú vị và trạng thái cảm xúc mà nó mô tả qua âm nhạc (trong bản này là "thở dài").
Không bàn đến những khó khăn mà Alkan đối mặt trong sự nghiệp, có một sự kiện riêng tư hơn rõ ràng đã để lại một vết thương tình cảm lớn cho nhà soạn nhạc trẻ tuổi. Ngày 8 tháng 2 năm1839, một đứa trẻ ra đời dưới cái họ Delaborde và sau này trở thành một trong những người chơi piano thành công nhất của Pháp. Mẹ của Delaborde là một học sinh giàu có của Alkan. Cha của Delaborde chính là Alkan. Tuy là trong một thành phố mà scandal không phải là gì mới mẻ nhưng sự kiện này vẫn ảnh hưởng nghiêm trọng lên tên tuổi của Alkan. Trong 6 năm tiếp theo, cái tên Alkan biến mất khỏi mọi bài báo về âm nhạc và thay vì đến với sân khấu, Alkan lại rút lui vào việc sáng tác. Quan hệ cha con của hai người không bao giờ được thể hiện trước công chúng ở Paris và luôn trong trạng thái miễn cưỡng. Nhưng Delaborde luôn luôn được chào đón ở nhà của Alkan và sau khi ông chết, Delaborde tiếp tục vinh danh âm nhạc của cha mình.
Khi Alkan không trình diễn hay vật lộn với sự xáo trộn của cuộc sống riêng tư, nguồn thu nhập chính của ông, cũng như Chopin là từ việc dạy học. Trong một khoảng thời gian, ông là giáo sư ở Trường nhạc Paris. Alkan dạy rất nghiêm chỉnh và mong được trở thành trưởng khoa piano ở học viện nổi tiếng này. Ông là người chơi piano Paris đủ tư cách nhất cho vị trí này khi nó bị trống vào năm 1848. Nhưng do những lục đục chính trị, tình trạng bài Do Thái và có thể là do tính nhút nhát và không giỏi giao tiếp mà Alkan bị bỏ qua và người ta chọn học sinh của chính Alkan, Marmontel: một giảng viên xướng âm làng nhàng còn chẳng biết chơi piano cho ra hồn nhưng sau này chính ông lại giảng dạy thế hệ nhạc sĩ tiếp theo của Pháp, trong đó có Bizet và Debussy và năm 1858 được trao tặng Bắc đẩu bội tinh, danh hiệu cao quý nhất của Pháp. Đứng trước việc này, Alkan lại càng trở nên buồn chán, rút lui về dạy tư và tự an ủi vết thương lòng.
Alkan là một người dễ gần, hài hước và thích tranh luận với các bạn bè thân thiết dù ông thường hay nhút nhát và hướng nội quá mức. Khi sự nghiệp không như mong đợi, cùng với những xáo trộn trong cuộc sống riêng, ông lại càng thu mình hơn và sự hướng nội này cuối cùng biến thành những cơn trầm cảm thường xuyên khi càng ngày ông càng thích ở một mình. Tính cách của ông cũng khiến ông dễ bị nhấm chìm trong những nỗi buồn thảm của một cuộc đời không như ý. Có lúc, ông có thể trút nỗi niềm qua âm nhạc, có lúc thì lại không. Như những lời ông viết cho Hiller năm 1861:
"Càng ngày tôi càng thấy chán ghét xã hội và phụ nữ...chẳng có việc gì đáng giá hay hữu ích để cho tôi làm...không một ai xứng đáng để tôi dồn trí cả. Tình trạng này khiến tôi thấy buồn thảm và khốn khổ khủng khiếp. Ngay cả việc viết nhạc cũng đã mất đi sự hấp dẫn rồi vì tôi chẳng còn thấy mục đích của nó nữa."
Có lẽ đó chính là lúc Alkan chuyển đam mê của mình ra ngoài âm nhạc, ông ngâm cứu thần học. Ông rất say mê Kinh thánh, bao gồm cả Tân Ước mà đạo Do Thái của ông sẽ không bao giờ cho phép. Âm nhạc của ông mang nhiều âm hưởng tôn giáo và có lần ông đã từng nói nếu được sống lại một lần nữa, ông sẽ đưa toàn bộ Kinh thánh vào âm nhạc! Dù lòng nhiệt thành của ông với dự án khó nhằn này chưa bao giờ thể hiện rõ, ông đã dịch xong toàn bộ Kinh thánh từ tiếng Hebrew sang tiếng Pháp! Nhiều tác phẩm với chủ đề tôn giáo của Alkan được viết cho pedal piano, một loại piano có pedal giống như organ để chân người chơi cũng được bận rộn như tay vậy! Buồn thay là nhạc cụ này đã bị rơi vào quên lãng và một phần quan trọng trong sự nghiệp âm nhạc của Alkan không còn được cất tiếng nữa (một số tác phẩm cho pedal piano đã được trình diễn bằng organ nhưng nhạc cụ này không phù hợp với những bản nhạc như vậy, do cần phải có âm thanh của piano như chủ ý ban đầu của nhà soạn nhạc).
Hiểu biết rộng rãi và thâm sâu trên rất nhiều lĩnh vực, Alkan cũng có một khiếu hài hước rất đáng kể (ông chỉ có thể chia sẻ điều này với hàng xóm là Chopin). Khả năng khéo léo chuyển tải sự hài hước vào âm nhạc của Alkan là rất độc đáo. Một trong những tác phẩm đáng chú ý nhất của ông là bàn "Funeral March on the Death of a Parrot" (thường hay bị nhầm thành "Funeral March for a Dead Parrot," một trích đoạn nổi tiếng trong vở hài kịch Monty Python). Niềm tưởng niệm riêng của Alkan với con vẹt là một bản nhạc hóm hỉnh, tài tình đồng thời lại có phần ngớ ngẩn một cách duyên dáng, thực ra là một trò đùa về Rossini, người vô cùng thích vẹt. Tác phẩm được viết cho nhiều giọng và sự kết hợp kì lạ của bộ hơi và một đoạn lời lặp đi lặp lại duy nhất bằng tiếng Pháp "Ai là Polly xinh đẹp nào?" ("Who's a pretty Polly?")! Một tác phẩm hóm hỉnh khác nữa tuy rằng cũng có nhiều khoảnh khắc bi ai , là "Le Festin d'Esope" (hay "Bữa tiệc của Aesop"), một chuỗi các khúc biến tấu dành cho piano mà mỗi khúc lại mô tả một con vật hay cảnh truyện trong ngụ ngôn của Aesop. Và dĩ nhiên, tiếng cười và sự bi ai là hai cảm xúc rất con người và không có gì ngạc nhiên rằng sự bi ai đau đớn là đặc trưng dễ nhận ra nhất trong âm nhạc của Alkan. Trong bản prelude cho piano "Bài hát của người phụ nữ điên trên bờ biển" ("The Song Of The Mad Woman On The Sea Shore"), sự tuyệt vọng tột cùng của Alkan, có lẽ sinh ra từ chính trải nghiệm của ông, được thể hiện hết sức mãnh liệt.
Ngoài trí tưởng tượng phong phú sống động, đời sống xã hội của ông rất yên ả và không có nhiều biến cố. Nhưng có lúc việc dạy học và sáng tác thường ngày (cả dịch Kinh thánh nữa) bị xáo trộn bởi đôi khi ông đột ngột quay trở lại trình diễn. Thực tế, vào giai đoạn sau của cuộc đời, khi nhà soạn nhạc khoảng 60 tuổi, ông trở thành một người chơi độc tấu thường niên ở Paris. Các chương trình của ông cho thấy sự quan tâm với dòng nhạc thánh khi ông trình diễn rất điêu luyện các tác phẩm dành cho keyboard ở mọi giai đoạn, từ Couperin, Rameau và J.S.Bach cho tới những người đương đại với ông, Schumann, Mendelssohn, Saints-Saens và dĩ nhiên là cả người bạn thân Chopin. Theo những người đương thời, lối chơi của Alkan nổi bật với những đoạn khoan thai và nhịp chắc chắn. Nhà soạn nhạc Vincent d'Indy sau khi nghe ông chơi bản Piano Sonata Op.110 của Beethoven năm 1870 đã hết lời ca ngợi Alkan:
"Tôi không thể tả được điều gì đã diễn ra với chất thơ của Beethoven nữa- hơn thế, những khúc Arioso và Fuge mà giai điệu vốn dĩ là về sự huyền bí của cái chết giờ lại tỏa ra thứ ánh sáng đầy lộng lẫy, tôi chưa bao giờ thấy những cảm xúc mạnh mẽ như thế này bao giờ. Màn trình diễn này còn xúc động và duyên dáng hơn nhiều so với của Liszt...".
Một học sinh của Liszt sau khi nghe Alkan chơi cho tới lúc ông qua đời, đã mô tả màn trình diễn của Alkan vẫn hừng hực sức trẻ cho dù ông đã già và ốm yếu hơn mình nhiều.
Những năm cuối đời Alkan rất cô độc và buồn bã. Ông không kết hôn và sự đơn độc khiến ông càng trở nên buồn và tuyệt vọng hơn. Ông chết một mình ở tuổi 74 và đã sống thọ hơn người bạn, người hàng xóng Chopin gần 40 năm.
Nghệ sĩ piano Raymond Lewenthal viết vào những năm 60 rằng: "Alkan có vẻ có điều gì đó đầy say mê và hào hứng muốn nói với những con người ở thời đại chúng ta. Thính giả, cả những người sành nghe và ít nghe đều đáp lại lời của ông." Suốt những năm tôi chơi Alkan từ lần đầu tiên trình diễn bản "Concerto for solo piano" hồi năm 1978 tới 18 năm sau, khi lần đầu tiên tôi chơi toàn bộ bản "Studies in all Minor Keys, Opus 39" của ông ở Oxford, Anh và tại Sảnh Nữ hoàng Elizabeth của London, tôi vẫn luôn thấy choáng ngợp trước niềm đam mê mãnh liệt ở trong âm nhạc của Alkan. Có chăng là bởi vì, đằng sau trình độ bậc thầy và khi những điều bí ẩn được hé lộ, những gì còn lại chính là một giọng nói thành thật, thẳng thắn và giản dị, một giọng nói xuất phát từ trái tim của âm nhạc mà những người nghe có thể đáp lời lại ngay lập tức. Nói đến đây, có lẽ những gì khiến âm nhạc của Alkan hấp dẫn người nghe không phải là những bản piano tuyệt tác, dù cho đúng là chúng rất thú vị, cũng không phải là sự khéo léo trong cấu trúc bản nhạc, dù cho đúng là chúng rất ấn tượng. Không, điều khiến người nghe bị lôi cuốn chính là niềm đam mê vô bờ bến của Alkan với âm nhạc và sự mạnh mẽ trong cá tính âm nhạc của ông.
Yeah, dịch bài này sau khi nghe toàn bộ "12 Etudes in all the Minor Keys, opus 39" do Jack Gibbons chơi (cảm ơn internet, cảm ơn rutracker) vì chưa bao giờ mình thấy thích một nhà soạn nhạc cổ điển nào như thế này, mỗi lần nghe đều thấy may mắn hết sức khi được gặp gỡ âm nhạc của Alkan. Bác Rachmaninov nói rồi đấy, "Âm nhạc là đủ cho một đời người nhưng một đời người không đủ cho âm nhạc", đúng thật là đúng mà :)